Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam biết giá mặt hàng này đã giảm liên tục trong 3 năm trở lại đây. Năm 2011, giá cao su lên tới mức đỉnh điểm 5.000 USD mỗi tấn thì nay, chỉ còn 1.500 USD, tức giảm đến 70%. Giá bán ra khoảng 31 triệu đồng mỗi tấn trong khi giá thành sản xuất khi tiết giảm tới mức tối thiểu vẫn là 30 triệu đồng.
“Với mức giá này, nếu các doanh nghiệp làm ăn không khéo là sẽ lỗ. Hiện chúng tôi đã đàm phán với một số nước có sản lượng cao su lớn trên thê giới như Malaysia, Indonesia, Thái Lan để cố gắng không bán cao su dưới mức 1.500 USD, tránh rơi vào tình cảnh càng làm càng lỗ,” lãnh đạo tập đoàn nói.
Hiện, giá cao su chỉ bằng 1/3 so với năm 2011 và xấp xỉ bằng giá thành sản xuất. |
Theo bà Trần Thị Thúy Hoa, Chánh văn phòng Hiệp hội cao su Việt Nam, mặc dù những tháng gần đây, kinh tế thế giới phục hồi, nhu cầu tiêu thụ cao su có cải thiện nhưng giá cao su không tăng.
Điều này là do những năm trước diện tích cao su không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới phát triển quá nhanh nên tồn kho cao su ba năm trở lại đây lớn. Hơn nữa, giá cao su phụ thuộc rất nhiều vào giá dầu.
“Dầu là thành phần chính để sản xuất ra cao su tổng hợp, một loại nguyên liệu cạnh tranh trực tiếp với cao su thiên nhiên. Trong khi giá dầu liên tục giảm thì không hy vọng giá cao su tăng lên được. Chúng tôi chỉ hy vọng giá cao su duy trì như hiện nay mà không tiếp tục giảm nữa”, bà Hoa nói.
Cũng theo bà Hoa, trong lúc giá cao su bị tác động kép bởi giá xăng dầu giảm và nguồn cung lớn thì ngành này lại đang phải chịu mức thuế quá cao, gây áp lực lớn cho doanh nghiệp. Vị này dẫn chứng tạiTây Ninh, dự tính sẽ tăng thuế đất lên 5 triệu đồng mỗi ha, Bình Dương, Bình Phước là 2-3 triệu đồng thuế đất trồng cao su, cao hơn rất nhiều so với mức thuế đất trước đó.
Trong khi, các doanh nghiệp cao su đang trồng cao su xen canh với một số cây trồng khác để tăng thu nhập trong bối cảnh giá cao su đang thấp. Những vườn này đang trong giai đoạn kiến thiết cơ bản, chưa cho thu nhập nhưng vẫn phải chịu thuế đất. Giai đoạn kiến thiết cơ bản với từng loại cây trồng là khác nhau nhưng cũng phải mất trung bình từ 5 đến 7 năm. “Việc vẫn phải chịu thuế đất trong khi vườn cây chưa có thu nhập là điều hết sức vô lý,” lãnh đạo tập đoàn công nghiệp cao su nói.
Theo bà Hoa, các địa phương nghiên cứu tăng thuế đất khi mà ngành cao su đang ở thời kỳ đỉnh cao nhất, nhưng lại áp thuế vào đúng thời kỳ khó khăn nhất. Nếu áp dụng mức thuế đất mới, giá thành sẽ cao hơn giá bán, tồn kho lớn, doanh nghiệp sẽ phá sản.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết sẽ báo cáo Chính phủ để có hướng giải quyết đối với các loại thuế trong ngành cao su. Song, cơ quan này cũng cho rằng sự phát triển nóng của ngành cao su đã cho ngành nông nghiệp một bài học. Cao su có thể là cây trồng lợi thế của Việt Nam nhưng phát triển phải có quy hoạch và giải pháp đồng bộ thận trọng chứ không phát triển ồ ạt, sản xuất với số lượng càng lớn càng tốt được.
Theo cơ quan quản lý, các doanh nghiệp nên phát triển theo chuỗi giá trị chứ không nên chỉ tập trung vào một khâu. Hiện, Việt Nam là một trong bốn nước sản xuất cao su lớn của thế giới nhưng chủ yếu là xuất khẩu nguyên liệu thô, chiếm tới 80%, nên kim ngạch thu về hàng năm chỉ 2 tỉ đô la Mỹ, đỉnh điểm cũng chỉ 3 tỉ đô la Mỹ. Tuy nhiên, các ngành công nghiệp trong nước lại phải nhập khẩu cao su thành phẩm với giá trị lớn hơn rất nhiều.
Theo Hiệp hội cao su Việt Nam, để sản xuất trong nước cạnh tranh được với mặt hàng cao su nhập khẩu thì doanh nghiệp cần miễn thuế nhập khẩu với các nguyên liệu để chế biến cao su thành phẩm. Bên cạnh đó, nhà nước nên hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác tìm hiểu thị trường, phát triển những sản phẩm chủ lực có tiềm năng tại nội địa.
Theo Thời báo Kinh tế Sài Gòn